Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một
địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong
hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên
thiếu và thanh niên của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của
đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm
có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh
phúc cho đồng bào.
Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi
sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều
nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân
lao động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực
của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng
thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân
các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản
yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do
cho nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham
dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng
gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người
cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn
Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Tháng
4/1922, Hội xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ
chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm 1925. Đây là một
công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, góp phần thức
tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm việc tại Quốc tế
Cộng sản. Tháng 10/1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất,
Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và là đại biểu duy
nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng.
Tiếp đó tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế
Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại các đại hội,
Nguyễn Ái Quốc kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I.
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng
sản tới phong trào giải phóng dân tộc.
Tháng 11/1924, với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản
và Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu
(Trung Quốc). Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc làm việc trong đoàn cố vấn
Bôrôđin của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng, ra tuần báo “Thanh
niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được tập
hợp in thành sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện lý luận quan trọng
đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau
đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại
hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về
châu Á.
Từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong
trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu
Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Tháng 6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do.
Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu
các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva (Liên Xô). Kiên trì con đường
đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo
phong trào cách mạng trong nước.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô sang Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước.
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới,
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức xây dựng lực
lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt
Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang
Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát
xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương
của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây.
Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã viết tập thơ “Nhật ký
trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9/1943, Hồ Chí Minh được trả tự
do.
Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí
Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền
thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại
đây theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội
Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra
Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba
Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của
nước Việt Nam độc lập.
Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam
một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm, Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên
bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung ương
Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng
lợi.
Tháng 2/1951, tại Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to
lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954),
giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân
dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Người
được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Quốc hội khóa II,
khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh
phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt
mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người
khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập,
tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Ngày 2//9/1969, Người mất tại Hà Nội.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản
Di chúc lịch sử, căn dặn những việc nhân dân Việt Nam phải làm để xây
dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của
tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh
thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc
Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, chấm dứt chiến
tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt
Nam.
Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam
đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực
hiện mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh
tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến
sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế
và phong trào giải phóng dân tộc. Người đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam,
sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn
luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là
tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô
cùng khiêm tốn, giản dị.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO)
đã tôn vinh Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá
kiệt xuất của Việt Nam".
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư
tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.