1. Phát hiện và trọng dụng người thanh niên trí thức yêu nước Phạm Quang Lễ
Ngay
từ trước khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc), với đối tượng
là những thanh niên ưu tú, rồi sau đó đưa về nước hoạt động tuyên
truyền, tổ chức quần chúng, làm hạt nhân cho phong trào cách mạng. Trong
quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, làm Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, tiếp đó là tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc phát hiện,
thu hút, tập hợp và trọng dụng nhân tài. Do đó, ngày 14-11-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta
dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối,
khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều” . Theo
Người: “những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến
rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng
khó khăn thêm nhiều” .
Chính
quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ phải đối phó với không ít khó
khăn về “thù trong, giặc ngoài”, từ ngày 31-5 đến 20-10 năm 1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp để gặp gỡ Chính phủ Pháp, chỉ đạo
Đoàn đàm phán tại Phông-ten-nơ-blô, đồng thời tiến hành nhiều hoạt động
ngoại giao, tranh thủ mọi diễn đàn để giải thích cuộc đấu tranh chính
nghĩa và nêu cao thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp đối với cuộc kháng chiến của nhân
dân ta. Tại chuyến thăm nước Pháp lịch sử đó, Người đã chọn lựa một số
trí thức yêu nước đưa về Tổ quốc để phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ
như: Bác sỹ Trần Hữu Tước , kỹ sư Võ Đình Quỳnh, kỹ sư Võ Quý
Huân,…trong đó có Phạm Quang Lễ - lúc đó 33 tuổi, đang là Kỹ sư của hãng
chế tạo máy bay. Nghe theo tiếng gọi của Bác: “Nước ta còn nghèo vì 80
năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam Bộ giờ đây còn đổ máu.
Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều chứ chưa được sung sướng ngay đâu.
Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào…” . Phạm
Quang Lễ và các trí thức yêu nước đã từ bỏ cuộc sống cao sang để về
phụng sự Tổ quốc, nhân dân.
Ông
sinh ngày 13/09/1913 tại thị xã Vĩnh Long, miền Tây Nam bộ trong một
gia đình có cha làm giáo viên tiểu học. Tháng 9/1935, Phạm Quang Lễ khi
đó 22 tuổi, rời quê hương, đất nước, xuống tàu thuỷ đi Pháp. Hành trang
mang theo mình chẳng có gì ngoài hoài bão được học hỏi để trở về phục vụ
quê hương. Trải qua các năm tháng học trung học rồi thi đỗ Đại học quốc
gia Cầu đường Paris và nghe giảng ở các đại học danh tiếng khác như
Trường tổng hợp Sorbonne, Đại học Mỏ, Đại học Bách khoa, Đại học điện và
Học viện kỹ thuật Hàng không đã giúp Phạm Quang Lễ tích lũy được một
khối lượng kiến thức cơ bản về vũ khí, kỹ thuật điện, máy. Với 11 năm
liền du học trên đất Pháp, Phạm Quang Lễ chính thức nhận được 4 bằng đại
học: tổng hợp, cầu đường, điện và hàng không. Sau khi ra trường, ông
vào làm ở một hãng Điện khí và tiếp sau đó là một Hãng chế tạo máy bay
dân dụng với mức lương là 22 lạng vàng một tháng. Chỉ 7 ngày sau khi về
nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được Bác trực tiếp giao nhiệm
vụ lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu
badôca của Mỹ, với hai viên đạn do GS Tạ Quang Bửu lúc này là Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng cung cấp. Ngày 5/12/1946, Phạm Quang Lễ tới Bắc bộ phủ
gặp Bác Hồ. Vừa gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nhưng cũng đầy
thân mật bảo: "Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú lại để
trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội
diệt giặc". Bác Hồ giao cho ông toàn quyền trong việc chế tạo vũ khí mà
không phải thông qua bất kỳ một cấp nào khác. Rồi Người căn dặn: "Việc
của chú là việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại
Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà
con chú còn ở trong Nam". Bác giải thích ý nghĩa cái tên: "Một là họ
Trần, là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn
để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nuớc. Đại Nghĩa
còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Chú có ưng bí danh đó
không?" . Từ thời điểm ấy, cái tên Trần Đại Nghĩa gắn với cuộc đời ông.

Bác Hồ với giáo sư Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu
2. Được Bác Hồ trọng dụng, tin tưởng giao phó, Trần Đại Nghĩa cống hiến hết mình cho đất nước
Cùng
các cộng sự, Trần Đại Nghĩa bắt tay vào công việc ngay từ tháng
11/1946. Ông say mê làm việc đến quên ăn, quên ngủ, nhiều đêm ông chỉ
mong cho trời chóng sáng để làm việc, nghiên cứu, thử nghiệm. Ông chỉ
đạo xưởng Giang Tiên sản xuất thành công một khẩu súng Badôca 60 mm và
50 quả đạn. Khi bắn thử, đạn nổ nhưng chưa xuyên. Đạn Badôca của Mỹ được
nhồi bằng thuốc phóng, còn ta chỉ có loại thuốc súng lấy được từ bom
đạn của Pháp. Tất cả đều phải tính toán lại từ đầu và phải hiểu được
những nguyên lý cơ bản về thuốc phóng, thuốc nổ. Những kiến thức học
được qua 11 năm du học tại Pháp giúp Trần Đại Nghĩa rất nhiều trong phát
minh, sáng chế vũ khí, đạn dược. Hình ảnh người kỹ sư miệt mài tính
toán tốc độ cháy, đốt thử các loại thuốc súng, ngày đêm với cây thước
tính trong tay... đã trở nên quá đỗi quen thuộc với các cán bộ Chiến
khu. Cuối tháng 2 năm 1947, cuộc thử nghiệm Badôca thành công. Mức đâm
xuyên của đạn vừa chế tạo đạt độ sâu 75cm trên tường thành xây gạch
tương đương với sức nổ xuyên của đạn Badôca do Mỹ chế tạo. Ngày 3/3/1947
đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế
tạo khí tài, súng đạn. Chiến công này góp phần đánh bại cuộc tấn công
của địch ra vùng Chương Mỹ, Quốc Oai. Bộ đội sau khi được trang bị nhiều
súng Badôca đa có nhiều sáng tạo trong chiến đấu. Nếu trước kia Badôca
chỉ nhắm vào các loại xe tăng, thiết giáp thì sau này, bộ đội còn sử
dụng để bắn ôtô, lô cốt, dùng thay thế lựu đạn ở những nơi đối phương
tập trung đông. Đạn Badôca có tầm xa tới 600m, phạm vi sát thương tới
50m, nhưng không làm hỏng vũ khí đối phương. Vì vậy chúng ta đã tịch thu
được nhiều súng đạn của giặc sau mỗi trận thắng.
Từ khi đưa vào sử dụng, Badôca đã gây cho địch nhiều tổn thất rất lớn.
Súng Badôca đã trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ địch, nhưng vẫn còn những
hạn chế, chẳng hạn như tầm bắn chưa tốt, nếu bắn cách xa 100m thì sức
phá sẽ kém đi... Chiến sự ngày một ác liệt, ngoài Badôca chiến trường
cần phải có thêm vũ khí hạng nặng. Trần Đại Nghĩa lại đêm ngày nghiên
cứu. Năm 1948, chiến sự diễn ra ngày một ác liệt hơn. Chiến trường cần
thêm những loại vũ khí hạng nặng, ngoài Badoca đã "thành danh". Trần Đại
Nghĩa khi đó là Cục trưởng Cục Quân giới lại một lần nữa nghiên cứu
thành công súng không giật SKZ và bom bay, hai loại vũ khí đặc biệt lúc
đó. Những năm 1948 - 1949, Cục Quân giới bắt đầu nghiên cứu các loại vũ
khí hạng nặng. Các nước tiên tiến khi đó dùng đại bác hạng nặng, hạng
trung hoặc đạn bay. Đạn bay ta chưa có, còn đại bác chỉ sử dụng trong
những chiến dịch lớn vì nó rất nặng, mỗi cỗ pháo nặng tới vài tấn thép.
Trần Đại Nghĩa luôn nghĩ về một loại súng thật nhẹ, có thể vận chuyển,
mang vác dễ dàng, nhưng lại có sức công phá ngang... đại bác. Lúc đầu có
người gợi ý làm Badoca cỡ lớn, chuyển đường kính từ 60 ly lên 90 ly
nhưng không được, vì những hạn chế kỹ thuật. Ông nghĩ tới súng không
giật (SKZ: súng- không- giật). Đây là loại vũ khí hiện đại, mới xuất
hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa của Nhật Bản hồi
cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng các kỹ sư cộng sự gần gũi như Lê
Tâm, Nguyễn Trinh Tiếp,... Trần Đại Nghĩa phải lặp lại cái công việc mà
các nhà sáng chế Mỹ đã hoàn thành. Cuối cùng, ông đã thành công. Đó là
loại súng rất nhẹ, chỉ 20kg, đầu đạn lõm cỡ 160mm, dùng để bắn vào những
pháo đài kiên cố của địch, đầu đạn xuyên thủng bêtông dầy hàng mét. Chỉ
sau SKZ của Mỹ mấy năm, SKZ Việt Nam xuất hiện lần đầu trong trận Phố
Lu, đánh phá tan tành các lô cốt địch. SKZ đã phát huy tác dụng rất lớn.
Gần đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Cục Quân giới chuyển vào chiến trường
10 khẩu SKZ và 100 quả đạn. Số súng đạn này đã góp phần giúp anh em
chiến sĩ hạ gục nhiều đồn bốt địch.
Sau
chiến dịch Việt Bắc (Thu Đông 1947), Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết
định phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Ngày
28/5/1948, Kỹ sư Trần Đại Nghĩa, được phong quân hàm Thiếu tướng. Năm
1949, Trần Đại Nghĩa 36 tuổi, được giao đồng thời hai nhiệm vụ Cục
trưởng cục Quân giới và Cục trưởng Cục Pháo binh. Ông đã góp phần quan
trọng xây dựng lực lượng pháo binh để tham gia chiến dịch Biên giới năm
1950, sau đó là chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Đông Xuân
1953-1954. Năm 1952, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc
lần thứ nhất, Trần Đại Nghĩa được phong danh hiệu Anh hùng lao động, một
trong bảy Anh hùng lao động đầu tiên của nước ta. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Trần Đại Nghĩa được chuyển
ra ngoài quân đội. Nhưng một thời gian sau, ông được trở lại để chế tạo
vũ khí trong chiến tranh chống Mỹ. Năm 1966, Bác Hồ đã nói với Quân uỷ
Trung ương: "Kháng chiến chống Pháp tôi đem chú Nghĩa về nước là để chú
ấy phục vụ cho Quốc phòng. Nay kháng chiến chống Mỹ cũng đang gặp nhiều
khó khăn về mặt vũ khí, đạn dược, sao lại để chú ấy ngồi làm việc ở cơ
quan bên ngoài, không gọi chú ấy về giúp cho Bộ Quốc phòng?" Sau đó,
Trần Đại Nghĩa được gọi trở lại Bộ Quốc phòng, làm Phó Chủ nhiệm Tổng
Cục hậu cần, phụ trách về kỹ thuật. Đó cũng chính là năm ông được bầu
làm Viện sĩ tại Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, danh vị cao nhất của
những người làm công tác khoa học. Nhận định về những vũ khí, khí tài
của Mỹ, Trần Đại Nghĩa cho rằng vũ khí cho dù có hiện đại đến mấy đi nữa
thì vẫn có nhược điểm, cần nghiên cứu, phát hiện và khoét sâu vào những
nhược điểm và đó là biện pháp đối phó tích cực nhất.
Ngay sau khi miền Nam được giải phóng, tháng 5/1975 Chính phủ đã quyết
định thành lập Viện Khoa học Việt Nam - Trung tâm nghiên cứu khoa học
lớn nhất cả nước về khoa học tự nhiên và một số ngành kỹ thuật. Viện sĩ
Trần Đại Nghĩa lúc này là Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước
được cử kiêm chức vụ Viện trưởng đầu tiên của Viện khoa học Việt Nam.
Dù thời chiến cũng như thời bình, Trần Đại Nghĩa luôn hết mình vì sự
nghiệp nghiên cứu khoa học, ông sẵn sàng gánh vác trách nhiệm nặng nề,
xây dựng nền khoa học Việt Nam trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, đất
nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, thiếu thốn đủ mọi đường, từ lực
lượng cán bộ khoa học, cơ sở vật chất, kinh phí...
**********
Cuộc
đời và sự nghiệp của Giáo sư Trần Đại Nghĩa là minh chứng rõ nhất khẳng
định tầm nhìn vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc phát hiện và
trọng dụng nhân tài. Đồng thời cũng chứng tỏ rằng người tài khi được
phát hiện và thực sự tin tưởng giao phó nhiệm vụ sẽ hết lòng cống hiến,
phục vụ. Trần Đại Nghĩa đã không phụ long mong mỏi, tin yêu của Bác Hồ.
Cách dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu đối với công tác cán bộ hiện nay.
TS DƯƠNG MINH HUỆ - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh